Bộ luật lao động hiện hành được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá IX, kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 23 tháng 6 năm 1994, có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 1995, trên cơ sở kế thừa và phát triển pháp luật lao động của Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã thể chế hoá một bước quan điểm, đường lối đổi mới, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Đảng Cộng sản Việt Nam, cụ thể hoá Hiến pháp năm 1992 về các quyền cơ bản của con người trong lĩnh vực lao động, sử dụng và quản lý lao động.
Sau 15 năm thi hành, Bộ luật lao động hiện hành cơ bản đã đi vào thực tiễn cuộc sống, tạo hành lang pháp lý cho các chủ thể thiết lập quan hệ lao động. Tuy nhiên đến nay, tình hình kinh tế - xã hội của đất nước nói chung, của thị trường lao động, quan hệ lao động nói riêng đã có những đổi mới đòi hỏi Bộ luật lao động cần phải được sửa đổi, bổ sung nhằm: thể chế hoá mục tiêu, quan điểm, định hướng xây dựng đất nước của Đảng Cộng sản Việt Nam được thể hiện qua các văn kiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X, lần thứ XI, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 và định hướng sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992; phù hợp với các luật chuyên ngành mới ban hành như: Bộ luật dân sự năm 2005, Luật Doanh nghiệp năm 2005, Luật cán bộ, công chức năm 2008, Luật viên chức năm 2010… và các văn bản luật sẽ ban hành theo dự kiến Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội khoá XIII như Luật việc làm, Luật an toàn vệ sinh lao động, Luật tiền lương tối thiểu…nhằm bảo đảm tính đồng bộ trong hệ thống pháp luật.
Đặc biệt, trước yêu cầu hội nhập quốc tế và khu vực, nhất là sau khi Việt Nam đã gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) thì Bộ luật lao động cần phải được sửa đổi, bổ sung để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong tình hình mới, đồng thời nội luật hoá các quy định trong các Công ước của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) mà Việt Nam đã phê chuẩn, nhằm phù hợp với pháp luật lao động của các nước ASEAN và thông lệ quốc tế.
Xuất phát từ những vấn đề cơ bản trên, ngày 18 tháng 6 năm 2012, tại kỳ họp thứ 3, Quốc hội khoá XIII nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Bộ luật lao động năm 2012 và ngày 02 tháng 7 năm 2012, Chủ tịch nước đã ký lệnh công bố và Bộ luật lao động năm 2012 có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 05 năm 2013, bao gồm 17 Chương và 242 Điều.
So với Bộ luật lao động hiện hành thì Bộ luật lao động năm 2012 (sau đây gọi tắt là Bộ luật lao động) có những điểm mới sau:
. Những vấn đề quy định chung: Bộ luật lao động năm 2012 đã bổ sung 01 Điều về giải thích từ ngữ, trong đó quy định rõ một số khái niệm như: “Quan hệ lao động là quan hệ xã hội phát sinh trong việc thuê mướn, sử dụng lao động, trả lương giữa người lao động và người sử dụng lao động”Khoản 6, Điều 3) và các khái niệm khác như tổ chức đại diện người sử dụng lao động, cưỡng bức lao động…Bên cạnh đó, Bộ luật lao động còn quy đinh cụ thể về quyền đóng cửa tạm thời doanh nghiệp, quyền gia nhập hoạt động trong Hội nghề nghiệp của người sử dụng lao động, về trách nhiệm đối thoại của người sử dụng lao động với tập thể lao động, về chính sách của nhà nước về lao động, bao gồm cả quản lý nguồn nhân lực, dạy nghề, thị trường lao động, quan hệ lao động và đặc biệt là có quy định về nghĩa vụ thực hiện quy chế dân chủ tại cơ sở của người sử dụng lao động (Điểm b, Khoản 2, Điều 6).
2. Về việc làm
Bộ luật lao động đã quy định về chức năng của Tổ chức dịch vụ việc làm là: “…tư vấn, giới thiệu việc làm và dạy nghề cho người lao động; cung ứng và tuyển lao động theo yêu cầu của người sử dụng lao động; thu thập, cung cấp thông tin về thị trường lao động và thực hiện nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật” (Khoản 1, Điều 14) cho phù hợp trong điều kiện mới và đã chuyển nội dung quy định về trợ cấp mất việc làm sang Chương III “Hợp đồng lao động” và quy định cụ thể về cách tính trợ cấp mất việc làm khi đã có chế độ Bảo hiểm thất nghiệp (Điều 49, Mục 3, Chương III).
3. Về Hợp đồng lao động
Đây là chế định trung tâm của Bộ luật lao động gồm 48 điều trên tổng số 242 điều của Bộ luật, chia thành 5 mục với những nội dung chủ yếu sau:
- Quy định về cho thuê lại lao động trong Mục 5, Chương III. Theo đó: “Cho thuê lại lao động là việc người lao động đã được tuyển dụng bởi doanh nghiệp được cấp phép hoạt động cho thuê lại lao động sau đó làm việc cho người sử dụng lao động khác, chịu sự điều hành của người sử dụng lao động sau và vẫn duy trì quan hệ lao động với doanh nghiệp cho thuê lại lao động”(Khoản 1, Điều 53), đồng thời trong Mục này cũng quy định cụ thể về hình thức sử dụng loại hình lao động này. Đây là quy định mới nhằm mở rộng các quan hệ lao động mới hình thành cho phù hợp với điều kiện hiện nay.
- Bổ sung nguyên tắc giao kết hợp đồng lao động trên tinh thần tự do, tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, trung thực và hợp tác nhưng không được trái pháp luật, thỏa ước lao động tập thể (nếu có) và đạo đức xã hội, các quy định khác nhằm minh bạch hóa các giao kết hợp đồng lao động (Mục 1, Chương 3).
- Về loại hợp đồng lao động, Bộ luật lao động cơ bản vẫn giữ như quy định hiện hành, tuy nhiên đối với hai loại hợp đồng lao động là Hợp đồng lao động xác định thời hạn và Hợp đồng theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng thì trong trường hợp đã hết hạn mà người lao động vẫn tiếp tục làm việc, hai bên phải ký kết hợp đồng lao động mới. Nếu không ký kết hợp đồng lao động mới thì loại hợp đồng lao động xác định thời hạn mà hai bên đã giao kết trở thành hợp đồng lao động không xác định thời hạn; còn loại hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc có thời hạn dưới 12 tháng trở thành loại hợp đồng lao động xác định thời hạn với thời hạn là 24 tháng.
Ngoài ra, trong Chương III, Bộ luật lao động cũng bổ sung nhiều quy định mới liên quan đến Hợp đồng lao động nhằm xác định rõ, minh bạch các quyền và nghĩa vụ của các bên trong quá trình thực hiện Hợp đồng lao động theo hướng bảo vệ người lao động là nhóm người yếu thế trong quan hệ lao động như: quy định về Phụ lục hợp đồng lao động để hai bên có thể dùng phụ lục hợp đồng để giao kết những nội dung mới so với nội dung đã có; quy định nâng mức lương thử việc của người lao động trong thời gian thử việc, ít nhất phải bằng 85% mức lương cấp bậc của công việc đó; bổ sung quy định mới về hình thức làm việc không trọn thời gian nhằm đảm bảo các chế độ lao động đối với người lao động khi thỏa thuận với người sử dụng lao động lựa chọn hình thức làm việc này; bổ sung một số nội dung quan trọng về các trường hợp chấm dứt hợp đồng lao động như: người lao động bị Tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự, người lao động chết; bổ sung mức tiền mà người sử dụng lao động phải bồi thường cho người lao động trong trường hợp người sử dụng lao động không muốn nhận lại người lao động khi đơn phương chấm dứt hợp đồng trái pháp luật; bổ sung điều mới về việc phải lập phương án sử dụng lao động của người sử dụng lao động trong trường hợp thay đổi cơ cấu, công nghệ, vì lý do kinh tế, sáp nhập, hợp nhất, chia tách doanh nghiệp, hợp tác xã mà việc này có nguy cơ làm nhiều người lao động mất việc làm, thôi việc và bổ sung nhóm quy định mới gồm 3 điều quy định về hợp đồng lao động vô hiệu, trong đó quy định các trường hợp được coi là hợp đồng lao động vô hiệu toàn bộ, vô hiệu từng phần.
4. Về đối thoại tại nơi làm việc, Thương lượng tập thể, Thỏa ước lao động tập thể.
Chế định này được quy định thành một chương (Chương V, 24 điều) với những nội dung mới sau đây:
- Quy định về Đối thoại tại nơi làm việc, theo đó xác định “Đối thoại tại nơi làm việc nhằm chia sẻ thông tin, tăng cường sự hiểu biết giữa người sử dụng lao động và người lao động để xây dựng quan hệ lao động tại nơi làm việc”(Khoản 1, Điều 63), đồng thời xác định rõ mục đích, hình thức đối thoại và việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở tại nơi làm việc.
- Quy định về Thương lượng tập thể để xác định rõ hơn về mục đích, nguyên tắc, quyền yêu cầu thương lượng tập thể, đại diện thương lượng, nội dung, quy trình và trách nhiệm của các bên trong thương lượng tập thể. Trong đó, Bộ luật lao động đã quy định rõ về trách nhiệm của tổ chức công đoàn, tổ chức đại diện người sử dụng lao động và cơ quan quản lý nhà nước về lao động trong thương lượng tập thể, theo nguyên tắc là không trực tiếp can thiệp vào quá trình thương lượng, thoả thuận của hai bên, nhưng phải hỗ trợ tích cực hai bên trong quá trình đàm phán, thương lượng, ký kết thoả ước lao động tập thể.
Ngoài ra, Bộ luật lao động còn bổ sung một số quy định về Thỏa ước lao động tập thể nhằm bảo đảm cho các Thỏa ước lao động tập thể phát huy được tác dụng cao phù hợp với các phương thức hoạt động trong các loại hình doanh nghiệp đa dạng và phong phú trong điều kiện hội nhập kinh tế hiện nay.
5. Về tiền lương
Đây là Chế định quy định cụ thể liên quan trược tiếp đến lợi ích của người lao động được quy định tại Chương VI, có 14 điều với những nội dung mới như sau:
Về cơ cấu tiền lương, Bộ luật lao động qui định: Tiền lương bao gồm mức lương theo công việc hoặc chức danh, phụ cấp lương và các khoản bổ sung khác. Việc trả lương phải được thực hiện một cách bình đẳng, không phân biệt giới tính đối với người lao động làm công việc có giá trị như nhau (Điều 90).
Đặc biệt, Bộ luật lao động bổ sung quy định việc thành lập Hội đồng tiền lương quốc gia, trong đó có sự tham gia của tổ chức đại diện người sử dụng lao động ở trung ương, là cơ quan tư vấn cho Chính phủ để nghiên cứu, khuyến nghị Chính phủ trong việc điều chỉnh, công bố mức lương tối thiểu nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng của người lao động trong điều kiện diễn biến giá cả phức tạp của kinh tế thị trường, giúp cho người lao động có khả năng phục hồi sức lao động nhằm bảo vệ người lao động.
Ngoài ra, Bộ luật lao động cũng bổ sung quy định về người sử dụng lao động thay đổi hình thức trả lương, về tiền lương làm thêm giờ trong trường hợp người lao động làm thêm giờ vào ban đêm, về thời gian tạm ứng tiền lương trong trường hợp người lao động tạm thời nghỉ việc để thực hiện nghĩa vụ công dân…
6. Về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi
Đây là những quy định nhằm bảo vệ sức lao động cho người lao động, tạo điều kiện để người lao động có thể phục hồi sực khỏe sau thời gian làm việc. Nội dung này được quy định tại Chương VII, có 14 điều với những nội dung mới như sau:
- Bộ luật lao động thống nhất một mốc chung để áp dụng trong cả nước về giờ làm việc ban đêm được tính từ 22 giờ đến 06 giờ sáng hôm sau (Điều 105). Đồng thời, Bộ luật lao động cũng bổ sung quyền của người sử dụng lao động trong việc quy định làm việc theo giờ hoặc ngày hoặc tuần để người sử dụng lao động chủ động xây dựng kế hoạch bố trí lao động phù hợp với ngành nghề cụ thể nhằm đạt năng suất cao và những trường hợp đặc biệt, người sử dụng lao động có quyền yêu cầu người lao động làm thêm giờ như: Thực hiện lệnh động viên, huy động đảm bảo nhiệm vụ quốc phòng an ninh trong tình trạng khẩn cấp về quốc phòng, an ninh theo quy định của pháp luật; thực hiện các công việc nhằm bảo vệ tính mạng con người, tài sản của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong phòng ngừa và khắc phục hậu quả thiên tai, hỏa hoạn, dịch bệnh và thảm họa (Điều 107).
- Về nghỉ trong giờ làm việc, Bộ luật lao động bổ sung trường hợp những người làm công việc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm theo quy định mà thời giờ làm việc không quá 6 giờ trong một ngày thì thời gian nghỉ giữa giờ ít nhất là 30 phút và tính vào giờ làm việc; bổ sung thêm 01 ngày nghỉ tết âm lịch từ 4 ngày lên 5 ngày, nâng tổng số ngày nghỉ lễ, tết trong một năm là 10 ngày và quy định mở rộng các trường hợp được nghỉ không hưởng lương của người lao động như: khi ông, bà nội ngoại, anh, chị, em ruột chết; bố hoặc mẹ kết hôn; anh, chị, em ruột kết hôn (Mục 3).
7. Về kỷ luật lao động, trách nhiệm vật chất
Kỷ luật lao động, trách nhiệm vật chất được quy định tại Chương VIII gồm 15 điều, bao gồm những quy định nhằm bảo vệ các quan hệ lao động, ràng buộc trách nhiệm giữa người lao động và người sử dụng lao động, góp phần tạo điều kiện cho các quan hệ lao động ổn định và phát triển. Nội dung này có những điểm mới sau đây:
- Về kỷ luật lao động, Bộ luật lao động bổ sung nghĩa vụ của người lao động trong việc đảm bảo bí mật sở hữu trí tuệ của người sử dụng lao động; bổ sung quy định người sử dụng lao động phải nộp hồ sơ đăng ký nội quy lao động trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày ban hành nội quy lao động; hồ sơ nội quy lao động phải đăng ký tại Sở Lao động, Thương binh và Xã hội và bản nội quy lao động có hiệu lực sau thời hạn 15 ngày kể từ ngày cơ quan lao động cấp tỉnh nhận được hồ sơ đăng ký.
- Về kỷ luật lao động, Bộ luật lao động bỏ hình thức xử lý kỷ luật chuyển đi làm công việc khác có mức lương thấp hơn trong thời gian tối đa không quá 6 tháng; quy định hình thức xử phạt kỷ luật lao động nặng nhất là sa thải và bổ sung thêm các hành vi khi người lao động vi phạm sẽ bị sa thải là: đánh bạc, cố ý gây thương tích, sử dụng ma túy trong phạm vi nơi làm việc, xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ của người sử dụng lao động hoặc hành vi đe dọa gây thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng về tài sản, lợi ích của người sử dụng lao động. Ngoài ra, Bộ luật lao động đã làm rõ khái niệm tái phạm, theo đó “Tái phạm là trường hợp người lao động lặp lại hành vi vi phạm đã bị kỷ luật mà chưa được xóa kỷ luật” (Đoạn 2, Khoản 2, Điều 126) và bổ sung quy định cấm người sử dụng lao động khi xử lý vi phạm kỷ luật lao động thực hiện các hành vi: xâm phạm thân thể, nhân phẩm của người lao động; dùng hình thức phạt tiền, cắt lương thay việc xử lý kỷ luật lao động…
8. Về an toàn lao động và vệ sinh lao động
Đây là những quy định điều chỉnh các quan hệ lao động nhằm chăm sóc và bảo vệ sức khỏe cho người lao động, phát triển sản xuất, được quy định tại Chương IX, Bộ luật lao động, gồm 20 điều với những điểm mới như sau:
- Bổ sung một số chính sách của Nhà nước trong lĩnh vực an toàn lao động, vệ sinh lao động bằng việc khuyến khích phát triển các dịch vụ an toàn lao động, vệ sinh lao động để đáp ứng ngày càng tốt hơn đến việc chăm sóc sức khoẻ, đảm bảo an toàn cho người lao động, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp như các quy định về người sử dụng lao động phải cử người làm công tác an toàn lao động, vệ sinh lao động, đối với những cơ sở sản xuất, kinh doanh trong các lĩnh vực có nhiều nguy cơ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.
- Quy định rõ các trách nhiệm của người sử dụng lao động như: phải chủ động xây dựng phương án xử lý sự cố, ứng cứu khẩn cấp và định kỳ tổ chức việc diễn tập để sẵn sàng xử lý tốt các tình huống; có tránh nhiệm đối với người bị tai nạn lao động, người học nghề, tập nghề và thử việc; phải lập kế hoạch, biện pháp an toàn lao động, vệ sinh lao động và cải thiện điều kiện lao động khi xây dựng kế hoạch sản xuất hàng năm của doanh nghiệp.
9. Về những quy định đối với người lao động nữ
Người lao động nữ là một trong những nhóm người lao động đặc thù bởi đặc điểm tâm, sinh, lý riêng và thiên chức riêng có của người phụ nữ trong xã hội. Do vậy, người lao động nữ cần có những quy định riêng, được Bộ luật lao động điều chỉnh trong Chương X gồm 8 điều nhằm bảo vệ sức lao động trong nhóm người lao động này. Những quy định đối với người lao động nữ có những điểm mới sau đây:
- Người sử dụng lao động đối với lao động nữ phải thực hiện các nguyên tắc bình đẳng giới không những trong tuyển dụng, sử dụng mà còn trong đào tạo, thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi, tiền lương và các chế độ khác.
- Người lao động nữ được bổ sung các quyền như: được nghỉ chế độ thai sản theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội trước và sau khi sinh con là 06 tháng và cho phép lao động nữ có thể nghỉ trước sinh với thời gian không quá 2 tháng; có quyền đi làm việc sớm mà điều này không có hại cho sức khỏe của họ; lao động nữ sau khi sinh trong trường hợp không có việc làm cũ, thì họ vẫn được người sử dụng lao động bố trí việc làm khác với mức lương không thấp hơn mức lương trước khi nghỉ thai sản và một số trường hợp lao động nữ được hưởng trợ cấp khi nghỉ để chăm sóc con ốm hoặc thực hiện các biện pháp khác như nạo, hút thai, thai chết lưu, phá thai bệnh lý... nhằm phù hợp với quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội.
10. Những quy định riêng đối với lao động chưa thành niên và một số lao động đặc thù
Những quy định riêng đối với lao động chưa thành niên và một số lao động đặc thù được quy định tại Chương XI gồm 25 điều nhằm điều chỉnh các quan hệ lao động đặc thù trong đó quy định người lao động là người chưa thành niên hoặc những quan hệ lao động mới xuất hiện trong điều kiện Việt Nam mở rộng hội nhập quốc tế… Nội dung này có những điểm mới cụ thể như sau:
- Đối với lao động chưa thành niên, Bộ luật lao động bổ sung nguyên tắc chung là không được sử dụng người chưa thành niên sản xuất và kinh doanh cồn, rượu, bia, thuốc lá, chất tác động đến tinh thần và các chất gây nghiện khác; đồng thời chia lao động chưa thành niên thành 4 nhóm tuổi nhằm đưa ra các quy định về điều kiện lao động phù hợp khi đối tượng này tham gia vào quan hệ lao động. Đồng thời, Bộ luật lao động có những quy định cụ thể các công việc và nơi làm việc cấm sử dụng lao động dưới 15 tuổi như công việc: mang, vác các vật nặng vượt quá thể trạng; sản xuất, sử dụng hoặc vận chuyển hóa chất, khí gas, chất nổ; bảo trì, bảo dưỡng thiết bị máy móc; phá dỡ các công trình xây dựng…
- Đối với các nhóm người lao động mới hình thành trong điều kiện mới, Bộ luật lao động bổ sung một số quy định mới với hai nhóm người là người lao động là người nước ngoài và người lao động là người giúp việc gia đình.
Với nhóm người lao động là người nước ngoài vào làm việc tại Việt Nam, Bộ luật lao động bổ sung điều kiện cho nhóm đối tượng phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ và có trình độ chuyên môn, tay nghề và sức khỏe phù hợp với yêu cầu công việc và thời hạn của giấy phép lao động tối đa là 2 năm.
Với nhóm người là người giúp việc gia đình, Bộ luật lao động bổ sung qui định về lao động là người giúp việc gia đình nhằm điều chỉnh dạng quan hệ việc làm đang tồn tại trong thực tế và có xu hướng phát triển và xác định rõ thế nào là lao động giúp việc gia đình và các các công việc mà người lao động giúp việc gia đình thực hiện. Đối với các công việc cũng là giúp việc gia đình nhưng theo hình thức khoán việc thì Bộ luật lao động năm 2012 không điều chỉnh.
11. Về Công đoàn
Công đoàn là tổ chức thực hiện vai trò đại diện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động trong các đơn vị sử dụng lao động. Bộ luật lao động quy định về Công đoàn tại Chương XIII, gồm 6 Điều với những điểm mới như sau:
- Bỏ thời hạn phải thành lập tổ chức công đoàn tại doanh nghiệp đang hoạt động mà chưa có tổ chức công đoàn và bỏ quy định trong thời gian chưa thành lập được tổ chức công đoàn tại doanh nghiệp thì chỉ định Ban chấp hành công đoàn lâm thời, đồng thời xác định rõ chủ thể đại diện, bảo vệ quyền lợi của người lao động ở những nơi chưa thành lập tổ chức công đoàn cơ sở là công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở; quy định thêm các hành vi bị cấm đối với người sử dụng lao động liên quan đến thành lập, gia nhập và hoạt động công đoàn và có những quy định cụ thể hơn quyền của cán bộ công đoàn cơ sở như: quyền gặp gỡ người sử dụng lao động để đối thoại, trao đổi, thương lượng về những vấn đề lao động và sử dụng lao động; đến với nơi làm việc để gặp gỡ người lao động trong phạm vi, trách nhiệm của mình đại diện…
12. Về giải quyết tranh chấp lao động
Trong quan hệ lao động, việc xảy ra những bất đồng, những mâu thuẫn giữa người sử dụng lao động và người lao động là không thể tránh khỏi, nhất là trong điều kiện hiện nay, khi Việt Nam mở rộng hội nhập, khi các Doanh nghiệp nước ngoài tham gia đầu tư vào Việt Nam thì mối quan hệ giữa người lao động và người sử dụng lao động là người nước ngoài và ngược lại càng trở nên phức tạp. Do vậy, việc giải quyết tranh chấp lao động cần phải được quy định chặt chẽ trong Bộ luật lao động nhằm bảo vệ quan hệ lao động tốt, góp phần phát triển sản xuất và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các bên. Bộ luật lao động dành Chương XIV gồm 5 Mục, 41 Điều để quy định những vấn đề này với những điểm mới sau:
- Quy định rõ tranh chấp lao động tập thể bao gồm tranh chấp về quyền và tranh chấp về lợi ích; mở rộng cơ chế giải quyết tranh chấp lao động và đình công đến tất cả các đơn vị có sử dụng lao động theo quy định; bỏ quy định về Hội đồng hoà giải cơ sở và không cho phép đình công đối với các tranh chấp lao động tập thể về quyền. Trong trường hợp này, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện phải tiến hành giải quyết tranh chấp lao động, nếu các bên không đồng ý với quyết định của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện hoặc quá thời hạn mà Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện không giải quyết, thì các bên có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết.
Đối với tranh chấp tập thể về lợi ích sẽ do Hội đồng trọng tài giải quyết, đồng thời bổ sung trách nhiệm của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện trong việc xác định loại tranh chấp lao động tập thể là về quyền hoặc lợi ích trong trường nhận được yêu cầu giải quyết tranh chấp tập thể và trách nhiệm hướng dẫn các bên đến cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp và bổ sung thẩm quyền hoãn và ngừng đình công cho Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh khi xét thấy cuộc đình công có nguy cơ gây thiệt hại nghiêm trọng cho nền kinh tế quốc dân, lợi ích công cộng và giao cho cơ quan nhà nước, tổ chức có thẩm quyền giải quyết.
- Bộ luật lao động cùng bổ sung quyền đóng cửa tạm thời doanh nghiệp của người sử dụng lao động trong thời gian đình công (Điều 216, 217).
Trên đây là những điểm mới cơ bản của Bộ luật lao động năm 2012 nhằm tiếp tục điều chỉnh các quan hệ lao động phù hợp trong điều kiện mới theo hướng khuyến khích, bảo vệ và phát triển những quan hệ lao động tốt, phù hợp, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên, góp phần quan trọng trong việc tiếp tục phát triển sức sản xuất, phát triển kinh tế - xã hội trong điều kiện hội nhập quốc tế sâu rộng ở Việt Nam hiện nay.
Công Trẻ