Sau 8 năm triển khai tổ chức thực hiện Pháp lệnh CCB và Nghị định 150 của Chính phủ, Hội CCB huyện luôn được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Thường trực Huyện uỷ, UBND huyện, sự phối hợp chặt chẽ của các cấp, các ngành, các địa phương, nhất là Phòng Tư pháp, Phòng Lao động Thương binh xã hội, Phòng tài chính, bảo hiểm xã hội, …. đã kịp thời cùng Hội CCB huyện giải quyết kịp thời những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện. Từ đó Pháp lệnh CCB và Nghị định số 150 của Chính phủ đã được triển khai thực hiện thống nhất, các đối tượng CCB trong huyện đã được hưởng chế độ chính sách theo quy định, tạo được niềm tin, sự phấn khởi đối với các thế hệ CCB và nhân dân.
Trong những năm qua, Hội Cựu chiến binh huyện đã thực hiện tốt việc xác định đối tượng CCB, xác nhận CCB đúng theo Điều 2 của Pháp lệnh CCB. Đến nay toàn Huyện hội đã khảo sát vận động được tổng số 317 đ/c CCB đủ điều kiện để phát triển vào Hội trong thời gian tới.
Nhìn chung việc tổ chức biên chế bộ máy cơ quan Hội Cựu chiến binh huyện, Hội Cựu chiến binh xã, thị trấn thực hiện đúng theo Điều 10, Điều 12 của Pháp lệnh CCB và Hướng dẫn số 06/HD-BTCTW-HCCBVN ngày 01/6/2007 của Ban Tổ chức Trung ương Đảng và Hội Cựu chiến binh Việt Nam quy định
Căn cứ chức năng, nhiệm vụ của Hội Cựu chiến binh đã được quy định trong Pháp lệnh CCB, Hội Cựu chiến binh huyện, xã, thị trấn luôn được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp, nhất là công tác xây dựng tổ chức Hội và định hướng hoạt động của Hội, nhằm động viên các thế hệ CCB trong huyện phát huy bản chất truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ”, thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của Hội góp phần vào sự phát triển chung của huyện, Tham gia xây dựng, bảo vệ Đảng, chính quyền, chế độ xã hội chủ nghĩa, thực hiện quy chế dân chủ, góp phần giữ vững ổn định chính trị, chăm lo đời sống hội viên, tham gia phát triển kin, tích cực tham gia các cuộc vận động, các phong trào ở địa phương, phối hợp chặt chẽ với Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và các đoàn thể tích cực tham gia giáo dục truyền thống yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng cho thế hệ trẻ.
Bên cạnh đó, nhận thức về CCB và Hội CCB theo Pháp lệnh CCB Việt Nam và Nghị định số 150 của Chính phủ ở một số ban, ngành chức năng ở địa phương chưa thật đầy đủ nên việc quan tâm thực hiện các chế độ chính sách đối với CCB có mặt chưa thật tích cực, thiếu nhiệt tình phối hợp, tháo gỡ vướng mắc về một số thủ tục cụ thể. Việc quan tâm bảo đảm về kinh phí cho Hội có lúc còn khó khăn, nên tổ chức các hoạt động của Hội có mặt hạn chế.
Sự phối kết hợp của các ban, ngành, đoàn thể với Hội CCB ở một số địa phương có lúc chưa chủ động, thiếu thống nhất, nên việc giải quyết chính sách đối với một số trường hợp có vướng mắc về thủ tục còn để kéo dài. Công tác tham mưu của Hội CCB ở một số địa phương thiếu tích cực, chủ động, việc đề xuất với cấp uỷ, chính quyền để chỉ đạo các ngành liên quan tháo gỡ những vướng mắc, bất cập chưa kịp thời, nên một số chế độ chính sách đối với CCB giải quyết còn chậm, gây bức xúc đối với CCB và thân nhân gia đình CCB.
Phương Thảo